Cúm là bệnh viêm nhiễm cấp tính đường hô hấp gây nên bởi virus Cúm. Bệnh lây truyền nhanh, thường phát triển thành dịch. Đối với người bình thường, tiêm phòng Cúm hàng năm là biện pháp được khuyến cáo là hữu hiệu và an toàn. Vậy còn với phụ nữ đang mang thai thì việc tiêm vaccine này có hiệu quả và an toàn không?
Có nên tiêm vaccine cho phụ nữ đang mang bầu?
Bệnh cúm có nhiều thể lâm sàng, thể thường gặp là: sau thời gian nung bệnh ngắn (khoảng 1 ngày), bệnh khởi phát đột ngột: sốt, rét run nhiều lần trong ngày, thân nhiệt tăng lên 39-40 độ C ngay ngày đầu, kéo dài 3-5 ngày kèm theo mệt mỏi, đau nhức toàn thân, đau đầu, đau cơ xương khớp, chân tay rã rời, da khô nóng, mặt bừng bừng, chảy nước mắt, sổ mũi, ngạt mũi, đau rát họng, có khi ho tức ngực, khạc đờm hoặc chảy máu cam, miệng đắng, buồn nôn, táo bón. Sau đó nhiệt độ giảm dần, các triệu chứng toàn thân giảm dần trong 5-7 ngày.
Tiêm vaccine ngừa Cúm có hiệu lực bảo vệ từ 70% – 80%, hiện nay chưa có vaccine phòng ngừa cúm gia cầm H5N1 và các chủng cúm sau H5N1. Chống chỉ định của vaccine là cơ địa dị ứng với trứng gia cầm.
Mang thai có liên quan đến sự thay đổi nội tiết tố và miễn dịch của cơ thể dẫn tới cơ thể phụ nữ mang thai dễ bị cảm nhiễm virus Cúm. Việc điều trị Cúm cho bà bầu gặp rất nhiều khó khăn do đó biện pháp phòng ngừa vẫn được khuyến cáo hàng đầu cho tất cả phụ nữ sẽ và đang mang bầu.
Vaccine ngừa cúm an toàn và hiệu quả trong bất kỳ thời điểm nào của thai kỳ. Chưa có nghiên cứu nào cho đến nay chứng minh vaccine ngừa cúm làm tăng nguy cơ biến chứng trên sản phụ hoặc những ảnh hưởng bất lợi trên đến thai nhi. ACIP cũng nhấn mạnh rằng chủng ngừa cúm là an toàn trong thời gian cho con bú nên các bà mẹ và trẻ em dưới 2 tuổi nên được chủng ngừa.
Thông tin về tính an toàn của vaccine Cúm
Trường Cao đẳng Sản phụ khoa của Mỹ (ACOG), với sự hỗ trợ của CDC đã tiến hành cuộc khảo sát trên toàn quốc vào tháng 5 năm 2004. Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy 52% bác sĩ sản đề nghị tiêm phòng Cúm cho một người phụ nữ khỏe mạnh trong ba tháng đầu của thai kỳ, 95% bác sĩ sản đề nghị chủng ngừa cho phụ nữ mang thai khỏe mạnh sau 3 tháng đầu thai kỳ, 63% đề nghị nên tiêm phòng cho một người phụ nữ có một yếu tố nguy cơ trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Trong mùa cúm 1976-1977, 56 phụ nữ được chủng ngừa cúm trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ đã được đánh giá. Kết quả cho thấy không có phản ứng ngay lập tức đáng chú ý được quan sát, và cũng không được có bất kỳ sự khác biệt trong quá trình mang thai giữa những sản phụ được tiêm ngừa cúm và những sản phụ không tiêm ngừa.
Trong một nghiên cứu khác gồm 26 sản phụ được chọn ngẫu nhiên tiêm ngừa cúm trong 3 tháng cuối thai kỳ. Kết quả cho thấy không có phản ứng bất lợi đáng kể, gồm đau, sốt vừa hoặc nặng.
Deinard và Ogburn đánh giá trên 189 phụ nữ được chủng ngừa cúm trong thời gian mang thai và ghi nhận không có sự khác biệt về sức khỏe sản phụ hay kết quả mang thai so với nhóm chứng gồm 517 phụ nữ mang thai không tiêm ngừa.
Trong một nghiên cứu dài hạn, Deinard và Ogburn phát hiện không có mối liên hệ giữa chủng ngừa cúm trên người mẹ và các biến chứng trên người mẹ hoặc trẻ sơ sinh. Không có dị tật quái thai được công bố và các con của người mẹ được chủng ngừa cúm không có sự khác biệt về thể chất hoặc thần kinh so với trẻ bình thường.
Trong một nghiên cứu hồi cứu, 3.160 trẻ sinh ra từ bà mẹ chủng ngừa cúm và 37.969 trẻ sinh ra từ bà mẹ không được chủng ngừa cho thấy không có sự khác biệt đối với tuổi thai, cân nặng hoặc thời gian nhập viện chờ sinh.
Sự an toàn của vaccine cúm được đánh giá trong 7 thử nghiệm khác, trong đó 4.500 phụ nữ mang thai được tiêm phòng vaccine và không có tác dụng phụ đáng kể cho thai nhi.
Thông tin về Thimerosal
Thimerosal, một hợp chất có chứa thủy ngân, là chất bảo quản đã được sử dụng trong một số vaccine, bao gồm cả vaccine Cúm, để làm giảm khả năng tăng trưởng của vi khuẩn. Ethylmercury là sản phẩm phân hủy của Thimerosal. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng ethylmercury không tích tụ và gây hại cho não thai nhi như metyl thuỷ ngân, và không có bằng chứng cho thấy có nguy cơ gia tăng chứng rối loạn phát triển thần kinh khi tiếp xúc với vaccine có chứa Thimerosal.
Sau khi xem xét các bằng chứng hiện có đối với Thimerosal và những mối quan tâm cho sự phát triển bào thai, ACIP kết luận: “Những lợi ích của tiêm phòng cúm cho tất cả các nhóm được đề nghị, bao gồm cả phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ nhiều hơn những lo ngại trên cơ sở lý thuyết về nguy cơ tiếp xúc Thimerosal qua tiêm phòng. Các nguy cơ làm bệnh tăng nghiêm trọng do nhiễm virus cúm đang tăng cao trong cả trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai, và tiêm chủng đã được chứng minh để giảm nguy cơ bị bệnh cúm nặng và các biến chứng y tế tiếp theo. Tuy nhiên, cho tới nay, rất nhiều nhà khoa học vẫn còn lo hại tác hại của thủy ngân trên thai nhi và vấn đề này còn gây tranh cãi rất gay gắt trong giới chuyên gia. Còn tại Việt Nam, đa số các bác sỹ không khuyến khích phụ nữ mang thai tiêm vaccine phòng Cúm do lo ngại các phản ứng phụ gây nguy hiểm cho thai nhi và bà mẹ.
Vaccine ngừa Cúm an toàn và hiệu quả trong thời kỳ mang thai. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào chứng minh vaccine Cúm làm tăng nguy cơ biến chứng trên mẹ hoặc ảnh hưởng lên thai nhi. Ngoài ra, không có đủ bằng chứng khoa học chứng minh chất Thimerosal trong vaccine Cúm ảnh hưởng có hại đến trẻ sơ sinh có mẹ được chủng ngừa cúm khi mang thai. Chủng ngừa Cúm ở người mẹ sẽ làm giảm khả năng tiếp xúc virus cho trẻ sơ sinh và hạn chế những biến chứng có thể tăng nặng do bệnh cúm.